C. hoàn toàn theo hình thức trang trại.
Giai đoạn 3: Trước khi nung
Những nguyên liệu được nghiền hoàn chỉnh sẽ được đưa vào buồng trước khi nung. Hỗn hợp nguyên liệu sau khi trộn lẫn được đưa vào tháp trao đổi nhiệt (preheater) và calciner để tiền nung. Quá trình tiền nung giúp loại bỏ các tạp chất hữu cơ và nước tự do trong nguyên liệu, chuẩn bị cho quá trình nung trong lò quay. Trong quá trình trao đổi nhiệt, hỗn hợp nguyên liệu được trao đổi nhiệt với khí nóng từ lò nung, giúp nâng cao nhiệt độ nguyên liệu lên khoảng 800-900°C. Quá trình này làm giảm năng lượng tiêu thụ trong lò nung và tăng hiệu suất sản xuất.
Công nghệ sản xuất xi măng lò quay khô
Công nghệ sản xuất xi măng lò quay khô là phương pháp hiện đại và tiên tiến nhất hiện nay. Quá trình sản xuất theo công nghệ này bao gồm các giai đoạn chính như sau:
Công nghệ lò quay khô có nhiều ưu điểm vượt trội như tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu phát thải khí nhà kính và cải thiện chất lượng sản phẩm. Đây là công nghệ phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy sản xuất xi măng hiện đại.
Công nghệ trong quy trình sản xuất xi măng
Trong ngành công nghiệp xi măng, công nghệ sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản phẩm cuối cùng. Hiện nay, có hai công nghệ chính được sử dụng rộng rãi: công nghệ sản xuất xi măng lò quay khô và công nghệ sản xuất xi măng lò đứng.
Giai đoạn 4: Giai đoạn trong lò nung luyện clinker
Hỗn hợp nguyên liệu sau khi tiền nung được đưa vào lò quay (rotary kiln) để nung luyện ở nhiệt độ cao, khoảng 1400-1500°C. Ta cần cấp liệu cho lò nung, yêu cầu công nghệ của phần công đoạn này là rút bột liệu sống từ đáy silô đồng nhất cấp đều đặn và ổn định năng suất (tấn/giờ) theo kế hoạch vận hành lò nung.
Trong lò quay, các phản ứng hóa học xảy ra mạnh mẽ, tạo ra các khoáng chất chính trong clinker như tricalcium silicate (C3S), dicalcium silicate (C2S), tricalcium aluminate (C3A), và tetracalcium aluminoferrite (C4AF). Khi nguyên liệu rơi xuống phần thấp nhất của lò nung thì sẽ hình thành lên sỉ khô.
Quy trình sản xuất xi măng chất lượng
Quy trình sản xuất xi măng gồm 6 giai đoạn như sau:
Công nghệ sản xuất xi măng lò đứng
Công nghệ sản xuất xi măng lò đứng là phương pháp truyền thống, được sử dụng từ lâu đời. Mặc dù công nghệ này hiện nay ít phổ biến hơn so với công nghệ lò quay khô, nhưng vẫn có một số nhà máy sử dụng do chi phí đầu tư ban đầu thấp và quy trình sản xuất đơn giản hơn. Quá trình sản xuất theo công nghệ này bao gồm các giai đoạn chính như sau:
Mặc dù công nghệ lò đứng có chi phí đầu tư ban đầu thấp và quy trình sản xuất đơn giản, nhưng hiệu suất năng lượng và chất lượng sản phẩm thường không cao bằng công nghệ lò quay khô. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn hoặc các khu vực thiếu nguồn năng lượng ổn định, công nghệ lò đứng vẫn được áp dụng do tính khả dụng và chi phí thấp.
Xi măng là một vật liệu xây dựng quan trọng và không thể thiếu trong ngành xây dựng hiện đại, góp phần tạo nên sự bền vững và chắc chắn cho các công trình. Quy trình sản xuất xi măng, từ khai thác nguyên liệu thô đến sản phẩm cuối cùng, đòi hỏi sự chính xác và tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt để đảm bảo chất lượng và an toàn.
Việc nắm rõ quy trình sản xuất xi măng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sản phẩm này mà còn tạo điều kiện để áp dụng các cải tiến và công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng, tiết kiệm chi phí và bảo vệ môi trường.
Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Ấn Độ
Diện tích gieo trồng và sản lượng
Lúa là một trong những cây lương thực chủ yếu của Ấn Độ, phục vụ trên một nửa dân số sử dụng trong bữa ăn hàng ngày. Lúa được gieo trồng tại nhiều vùng của Ấn Độ với diện tích canh tác vào khoảng 45,6 triệu ha, sản lượng 99,37 triệu tấn và năng suất trung bình 2,17 tấn/ha trong niên vụ 2008/09. Đến niên vụ 2016/17, Ấn Độ đạt sản xuất mức kỷ lục 109,15 triệu tấn lúa trong đó gần 90% sản lượng được tiêu dùng nội địa và dự trữ.
Nói đến sản xuất lúa gạo nói riêng và sản xuất lương thực nói chung của Ấn Độ, không thể không đề cập đến cuộc Cách mạng xanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Cách mạng xanh lần thứ nhất bắt đầu từ thập niên 50 và 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước trên thế giới, thông qua các biện pháp kỹ thuật, nhất là phân bón, thuốc trừ sâu và giống mới bằng lai tạo, làm tăng năng suất đáng kể cho các loại cây trồng, nhất là lúa mì và lúa gạo.
Ấn Độ là một trong những nước đi đầu trong Cách mạng xanh vì dân số đông và phần lớn sống tại khu vực nông nghiệp, sản lượng lương thực thấp, luôn thiếu lương thực và phải đối mặt với nạn đói.
Năm 1963, Ấn Độ nhập một số chủng lúa mì mới của Mexico và xử lý chủng Sonora 64 bằng phóng xạ, đã tạo ra giống Sharbati Sonora, hàm lượng chất dinh dưỡng và chất lượng còn tốt hơn cả chủng Mexhico tuyển chọn. Ngoài các loại giống lúa mỳ, ngô, lúa,... Ấn Độ cũng nhập khẩu phân bón phục vụ cho việc nâng cao năng suất cây trồng và cải tạo hệ thống thủy nông, cung cấp lượng nước ổn định cho sản xuất nông nghiệp.
Cách mạng xanh lần hai bao gồm việc áp dụng công nghệ và kỹ thuật canh tác mới có năng suất cao, chất lượng tốt, giống mới có khả năng chống chịu dịch bệnh, thích nghi với môi trường, khí hậu khắc nghiệt; quản lý và điều phối nguồn nước tưới tiêu bằng cách chuyển nước từ miền Bắc xuống miền Tây và miền Nam. Cuộc cách mạng xanh lần hai tập trung cải thiện vật tư đầu vào, dịch vụ cho nông dân, khuyến nông và phương pháp quản lý, nhằm bảo đảm thu nhập cho người dân. Nhờ đó, Ấn Độ tăng năng suất lương thực lên gấp 2 – 3 lần.
Kết quả là từ một nước có nạn đói kinh niên, không sao vượt qua ngưỡng 20 triệu tấn lương thực, Ấn Độ đã trở thành một nước có đủ ăn và dư thừa để xuất khẩu với tổng sản lượng lương thực kỷ lục 273 triệu tấn (trong đó có 109,15 triệu tấn lúa) năm 2016/17, tạo điều kiện để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa.
Các bang chính trồng lúa là Tây Bengal, Uttar Pradesh, Andhra Pradesh, Punjab, Tamil Nadu, Odisha, Bihar và Chattisgarh. Các bang này chiếm 72% diện tích và 75% sản lượng lúa toàn Ấn Độ.
Theo Bộ Nông nghiệp Ấn Độ, lúa được gieo trồng từ 1 – 3 vụ trong một năm tùy theo điều kiện thời tiết. Vụ Thu (Autumn Rice/Pre – Kharif Rice) từ tháng 6 đến tháng 10; vụ Hè (Summer Rice/Rabi Rice) từ tháng 7 đến tháng 11 và vụ Đông (Winter Rice/Kharif Rice) từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau. Vùng Đông và Nam Ấn Độ do có thời tiết thuận lợi, lúa được gieo trồng 2 – 3 vụ/năm trong khi vùng Bắc và Tây Ấn Độ chỉ có thể gieo trồng 1 vụ từ tháng 6 đến tháng 11 vì mưa và rét nhiều vào mùa đông.
Sản xuất lương thực của Ấn Độ 2013 – 2016*
* Theo phân loại của Ấn Độ, lương thực (foodgrain) bao gồm: lúa, lúa mỳ, coarse grains và đậu.
** Coarse grains bao gồm: ngô, mạch, cao lương, hạt kê
Trong năm 2015/16, các bang chính gieo trồng lúa: Uttar Pradesh 13,52% diện tích toàn Ấn Độ; tiếp theo là Tây Bengal 12,59%; Odisha 9,09%; Chattisgarh 8,79%. Các bang chính về sản lượng: Tây Bengal 15,75 triệu tấn với 15,10% toàn Ấn Độ; Uttar Pradesh 12,51 triệu tấn và 11,33%; Punjab 11,82 triệu tấn và 7,65%; Tamil Nadu 7,98 triệu tấn và 7,18%; Andhra Pradesh 7,49 triệu tấn và 6,22%.
Lúa đã được trồng tại Ấn Độ từ khoảng 14.000 năm trước đây. Đến năm 1970, cả nước có 11.000 giống lúa. Nhưng do tác động của Cách mạng xanh, ngành nông nghiệp, cùng với việc thâm canh, tăng vụ, đã chú trọng hơn đến độc canh và lai vụ, nên số lượng giảm chỉ còn 600 giống lúa. Mười nhóm giống lúa hàng đầu hiện nay tại Ấn Độ: giống lúa gạo trắng, gạo nâu, gạo đỏ, lúa nếp, gạo đồ, gạo đen, basmati, gạo thơm, gạo chế biến sẵn, gạo từ lúa mọc hoang (wild rice). Ấn Độ phân chia gạo theo 2 loại basmati và phi basmati.
Sản xuất lúa gạo của Ấn Độ đã đạt được những thành công lớn trong nhiều năm qua về diện tích, sản lương và năng suất. Nhưng ngành này vẫn phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Đó là tình trạng phụ thuộc nặng vào thời tiết, mưa thất thường gây lụt và hạn hán tại nhiều địa phương, nhất là phía Đông và Tây.
Tiếp đến là các vẫn đề về ruộng đất, nhân lực và các yếu tố đầu vào như thuốc trừ sâu, phân bón, thuốc diệt cỏ. Hiện tượng đất bị chua hóa đang xảy ra tại phía Đông và phía Nam, trong khi tại miền Bắc, đất đang bị nhiễm mặn và kiềm hóa. Đất kém màu mỡ và thiếu phốt pho và kẽm cũng đang là những trở ngại cho nông nghiệp. Sâu cuốn lá nhỏ, rầy nâu, rệp, sâu cuốn lá, rầy xanh, muỗi hành…là những loại sâu thường gây thiệt hại diện tích gieo trồng, năng suất và sản lượng. Tổn thất sau thu hoạch cũng là vấn đề lớn của nông nghiệp, thường gây tổn thất 8 – 10% sản lượng.
Năm 2016/17, sản lượng lương thực Ấn Độ đạt mức kỷ lục cao 273,38 triệu tấn, tăng 8,7% so với năm trước. Trong đó, lúa gạo đạt kỷ lục 109,15 triệu tấn, tăng 4,5%; lúa mỳ tăng 5,6% đạt 97,44 triệu tấn; coarse grains tăng 15,2% đạt 44,39 tấn; một số đậu chính đạt 22,40 triệu tấn, tăng 37%. Ấn Độ là nước sản xuất lúa lớn thứ hai thế giới, sau Trung Quốc. (Xem tiếp phần 2)
* Nguyên Tham tán Thương mại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ