Ppt Văn Miếu Quốc Tử Giám

Ppt Văn Miếu Quốc Tử Giám

slide Văn Miếu Quốc Tử GiámRead less

Mô tả về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 2

Trong số hơn 500 di tích lịch sử ở Hà Nội, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong những di tích quan trọng nhất, có liên quan đến việc thành lập Thăng Long dưới triều Lý. Với lịch sử gần nghìn năm, quy mô lớn và uy nghi nhất, đây là biểu tượng của Hà Nội và văn hóa, lịch sử của Việt Nam.

Hàng nghìn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã chuyển đô từ Hoa Lư đến Đại La và đổi tên thành Thăng Long. Mặc dù thời gian trôi qua, Hà Nội vẫn giữ lại những dấu ấn cổ kính cùng với những danh lam thắng cảnh. Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong số đó.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thế kỷ 11 dưới triều nhà Lý, với mục đích chính là giáo dục các hoàng tử và những người tài. Đồng thời, đây cũng là nơi tôn vinh các danh nhân trong lĩnh vực giáo dục, tổ chức các kỳ thi quốc gia, đặc biệt là kỳ thi tiến sĩ.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam của Thăng Long cổ, thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Dù bốn mặt tiếp giáp với các con phố sầm uất, nhưng không làm mất đi vẻ yên bình, cổ kính của nơi này. Quần thể kiến trúc này có diện tích 54331m², bao gồm hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.

Hồ Văn đặt đối diện với cổng chính của Quốc Tử Giám, đã được trùng tu từ lâu. Đây là một hồ nước xanh mát, bên bờ cây xanh rợp mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Khung cảnh yên bình, thơ mộng giúp các sĩ tử giải tỏa căng thẳng trước giờ thi.

Khu nội tự của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và được tổ chức từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Các lối đi trong Văn Miếu được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, qua khu Nhập đạo đến cổng Đại Trung Môn, hai khu vực này đều được trồng cây để làm mát và có hồ nhỏ ở hai bên.

Tiếp theo là Khuê Văn Các, một lầu vuông tám mái, bốn bên tường có cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa sáng. Tầng dưới có bốn trụ gạch vuông, trang trí hoa văn. Tầng trên là gỗ sơn đỏ có thếp vàng trừ mái và phần trang trí góc mái.

Tiếp theo là khu bia Tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh, hay còn gọi là giếng soi ánh mặt trời. Bên cạnh hồ là những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính, tạo thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tổng cộng có 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Rùa được chọn làm chỗ đặt bia vì theo quan niệm của người Việt, rùa là thần Kim Quy, tượng trưng cho tinh thần, sức mạnh và đoàn kết của dân tộc.

Kế tiếp là khu bia Tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là sân rộng hàng ngàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng, nơi trước kia dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay, đây là nơi tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và cả nước. Phía trước là tòa Đại Bái Đường rộng lớn, kéo dài trải dài chiều rộng của sân. Phía sau và song song là tòa Thượng Điện với chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng Điện xưa kia là nơi thờ tự và học hành, ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các danh nhân. Trong gian chính của Thượng Điện, có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải và trái có ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị, cả bốn vị đều có tượng gỗ sơn mài. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày và bán đồ lưu niệm cho khách tham quan.

Sau Thượng Điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ của Khổng Tử.

Khu Tiền đường và Hậu đường là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo và tổ chức các hội thảo khoa học, văn hóa nghệ thuật. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dục Nho học Việt Nam. Tầng hai thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và góp phần vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Trong khuôn viên Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung đúc từ năm 1768, và nhà trống treo trống lớn màu đỏ.

Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ.

So với trường đại học Bologna ở Ý - trường đại học cổ nhất ở châu Âu với lịch sử từ năm 1088 đến nay, vẫn giữ được vẻ đẹp cổ điển với kiến trúc thời Trung cổ. Các toà nhà màu cam nổi bật và các mái vòm trang trí tinh xảo trên các hành lang. Quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam.

Mỗi khi xuân về, hình ảnh cổ kính của người Hà Nội lại hiện hữu thông qua những người đàn ông bày mực và tàu giấy đỏ trên phố đông người qua lại. Việc xin chữ đầu năm đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của đất Hà Thành.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ là biểu tượng của tri thức và văn hóa, mà còn là biểu tượng của khát vọng học hỏi của người Việt, thu hút du khách trong và ngoài nước. Đây cũng là một khu di tích văn hóa nổi tiếng của Hà Nội.

Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 3

Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong những quần thể di tích đa dạng và phong phú nhất của Thăng Long - Hà Nội thời nhà Lý, nằm ở phía nam của kinh thành.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám là tổ hợp bao gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, nơi tôn vinh các nhà hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp, và Quốc Tử Giám - ngôi trường đại học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, đã đào tạo hàng nghìn tài năng cho đất nước trong hơn 700 năm. Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là điểm đến của du khách và cũng là nơi gặp gỡ của các học sinh xuất sắc, cũng như là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi mà các thí sinh đến để 'cầu may' trước mỗi kỳ thi.

Văn Miếu được xây dựng vào 'tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, khi đó tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền được đắp, và bốn mùa cúng tế được tổ chức. Hoàng thái tử đã đến đây để học tập.

Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442). Năm 1076, Lý Nhân Tông thành lập trường Quốc Tử Giám, được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành cho con của vua và các gia đình quý tộc (gọi là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông đã sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông mở rộng Quốc Tử Giám và nhận học sinh từ các gia đình thường dân có năng khiếu học vấn.

Trong thời Minh Tông của triều đại Trần, Chu Văn An được bổ nhiệm làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và là thầy dạy trực tiếp cho các hoàng tử. Ông qua đời vào năm 1370 và được vua Trần Nghệ Tông thờ tại Văn Miếu, gần bên cạnh tượng Khổng Tử.

Sang thời Hậu Lê, Nho giáo phát triển mạnh mẽ. Năm 1484, Lê Thánh Tông đã cho xây dựng bia tiến sĩ để vinh danh những người đỗ tiến sĩ từ kỳ thi năm 1442 trở đi.

Năm 1762, Lê Hiển Tông quyết định sửa đổi Quốc Tử Giám thành trung tâm đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Vào năm 1785, nơi này được đổi tên thành Nhà Thái Học.

Trong triều đại nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám được thành lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long đã xác định nó là Văn Miếu - Hà Nội và xây dựng thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ, ở phía sau Văn Miếu, đã được chuyển thành Nhà Khải Thánh để tưởng nhớ cha mẹ của Khổng Tử. Đầu năm 1947, nhà này đã bị phá hủy bởi đạn lớn của quân Pháp, chỉ còn lại một phần nền đất với hai cột đá và bốn đá nghiên. Ngày nay, nó đã được phục hồi theo kiến trúc ban đầu cùng với các công trình khác trong quần thể.

Năm 1762, Lê Hiển Tông đã quyết định cải tổ Quốc Tử Giám thành trung tâm giáo dục và đào tạo cao cấp dành cho triều đình. Vào năm 1785, nơi này đã được đổi tên thành Nhà Thái Học.

Trong triều đại nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám được thành lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long quyết định đặt tên nó là Văn Miếu - Hà Nội và cho xây dựng thêm Khuê Văn Các. Phía sau Văn Miếu, ngôi trường cũ đã được chuyển thành Nhà Khải Thánh để tưởng nhớ cha mẹ của Khổng Tử. Đầu năm 1947, quân Pháp nã đạn làm sập toà nhà, chỉ còn lại phần nền với hai cột đá và bốn đá nghiên. Ngày nay, ngôi nhà này đã được tái thiết theo kiến trúc cổ điển, phù hợp với các công trình khác trong khu vực.

Kiến trúc của quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám được tổ chức theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể của khu Văn Miếu thờ Khổng Tử tại quê hương ông ở Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Mặc dù quy mô ở đây đơn giản hơn và kiến trúc đơn giản hơn, nhưng vẫn giữ được nét truyền thống của nghệ thuật dân tộc.

Ở phía trước của Văn Miếu là hồ lớn được gọi là hồ Văn Chương, trước đây được biết đến với tên Thái Hồ. Trong hồ có đài Kim Châu, trước đây có một lâu đài dành cho việc ngắm cảnh.

Bên ngoài cổng chính có bốn trụ, hai bên là hai bia đá gọi là 'Hạ Mã', xung quanh là tường rào cao bao quanh. Cổng Văn Miếu được xây dựng theo kiểu Tam Quan, trên cổng có ba chữ 'Văn Miếu Môn' được viết bằng chữ Hán cổ.

Trong Văn Miếu, được chia thành 5 khu vực rõ ràng, mỗi khu vực có tường ngăn và cổng đi liên kết với nhau:

Khu đầu tiên: bắt đầu từ cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ gọi là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.

Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là một công trình kiến trúc không lớn nhưng rất đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông bên dưới, có những kết cấu gỗ đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can và con sơn. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành 8 mái, gác là một lầu vuông tám mái. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả sự tinh túy của văn học. Hai bên phải trái của Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ.

Khu thứ ba: bao gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh, hai bên có 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện có 82 tấm bia tiến sĩ từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu trái và phải. Trong đó, 12 tấm bia đầu tiên (năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 tấm (năm 1518, 1529) vào thời nhà Mạc, còn 68 tấm cuối cùng (năm 1554-1779) vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia có 1 Bi đình ở giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 tấm) xếp thành hai hàng, ở hai bên Bi đình. Bi đình khu trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.

Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chính của Văn Miếu, bao gồm hai công trình lớn song song và kế tiếp nhau. Tòa ngoài là Bái đường, tòa trong là Thượng cung.

Khu thứ năm: được biết đến là khu Thái Học, trước đây từng là địa điểm của đền Khải Thánh, nơi thờ phụng cha mẹ của Khổng Tử, nhưng đã bị hủy hoại. Khu nhà Thái Học mới được tái xây dựng vào năm 2000.

Trong Văn Miếu có bức tượng của Khổng Tử và bốn Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở đền thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa, một biểu tượng phổ biến tại các điểm thánh của Việt Nam. Hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện sự hòa hợp giữa trời và đất, giữa hai sức mạnh âm và dương. Rùa tượng trưng cho đất, còn hạc tượng trưng cho bầu trời. Legend kể rằng rùa và hạc là bạn đồng hành của nhau. Khi mưa lũ ngập tràn, hạc không thể sống dưới nước, vì vậy rùa đã giúp hạc vượt qua nước ngập. Ngược lại, khi trời khô hanh, hạc đã đưa rùa đến nơi có nước. Điều này thể hiện lòng trung thành và sự hỗ trợ giữa những người bạn.

Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của Hà Nội.